Tăng nội lực để tự chủ nền kinh tế
Sau phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng vào chiều 4/11. Không khí phiên thảo luận của Đoàn ĐBQH TP Hà Nội diễn ra sôi nổi, trách nhiệm và đầy tâm huyết.
Tổng Bí thư dự và đóng góp ý kiến tại Tổ 1, cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy MTTQ và các đoàn thể Trung ương, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Sỹ Thanh; Chủ tịch HĐND TP Hà Nội Nguyễn Ngọc Tuấn – Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hà Nội.
Các đại biểu thống nhất, đánh giá cao và cho rằng dự thảo được chuẩn bị công phu, chu đáo, có nhiều điểm mới. Đặc biệt, việc hợp nhất ba văn kiện quan trọng gồm: Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội và Báo cáo về tổng kết xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng thành một Báo cáo chính trị chung theo trục xuyên suốt, thống nhất, đồng bộ – được xem là tư duy đột phá, thể hiện cách làm sáng tạo của Ban soạn thảo.
Đi vào góp ý cụ thể, dự thảo văn kiện đã chỉ rõ điểm nghẽn lớn nhất của thể chế hiện nay là sự thiếu đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. Nếu chỉ dừng lại ở việc sửa đổi các luật riêng lẻ thì sẽ khó tạo ra sự thay đổi căn cơ.
Để giải quyết vấn đề này, đại biểu kiến nghị bổ sung nhiệm vụ chuẩn hóa dữ liệu hệ thống văn bản pháp luật vào nhóm đột phá chiến lược, ví như “đường cao tốc số cho hệ thống pháp luật quốc gia”.
Đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Đoàn ĐBQH TP Hà Nội, phát biểu: “Thứ nhất, tôi đề nghị bổ sung nhiệm vụ xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật có thể đọc được bằng máy vào mục đột phá chiến lược về thể chế. Đây không chỉ là một cải tiến kỹ thuật, mà sẽ là bước đột phá thể chế quan trọng, giúp hệ thống pháp luật Việt Nam trở nên minh bạch, thống nhất, có khả năng tự phát hiện mâu thuẫn và xung đột giữa các văn bản. Thứ hai, cần xác lập chuẩn dữ liệu quốc gia về pháp luật, tương tự như chuẩn về chữ viết trong văn bản hành chính hay chuẩn thống kê quốc gia, nhằm đảm bảo tính nhất quán và khả năng liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống pháp luật. Thứ ba, trong dự thảo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội, đề nghị giao Chính phủ – mà cụ thể là Bộ Tư pháp – đóng vai trò “nhạc trưởng” trong chương trình chuyển đổi số pháp luật quốc gia."
Cần bổ sung nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật có thể đọc được bằng máy, nhằm tăng tính kết nối, minh bạch và đồng bộ giữa các văn bản.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn ĐBQH TP Hà Nội, nhận định: “Tôi muốn làm rõ thêm nội hàm của đột phá về thể chế, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế hiện nay.
Bởi vì thể chế chính là khung pháp lý định hình cho mọi hoạt động phát triển, là nền tảng để bảo đảm sự vận hành thống nhất của nền kinh tế và xã hội.
Khi nền kinh tế đang chuyển sang mô hình số, dữ liệu và công nghệ số đã trở thành nguồn lực phát triển mới, thì thể chế cũng phải đổi mới, linh hoạt và thích ứng nhanh hơn với thực tiễn.”
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV xác định mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2026–2030 đạt trên 10%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 8.500 USD vào năm 2030. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào gia công, lắp ráp thì khó đạt được mục tiêu này.
Tái cấu trúc nền kinh tế là yêu cầu bắt buộc để tăng sức mạnh nội sinh, và mục 4 của nghị quyết cần nhấn mạnh chiến lược phát triển sản phẩm nội địa thay thế nhập khẩu, với cơ chế đặt hàng, bảo hộ cho sản phẩm trong nước.
Đại biểu Hoàng Văn Cường, Đoàn ĐBQH TP Hà Nội, đề nghị: “Ở đây tôi xin nhấn mạnh rằng cần phải có chính sách đặt hàng và bảo hộ sản xuất trong nước, để tránh tình trạng như hiện nay ở một số ngành: chúng ta không bảo vệ sản xuất nội địa, thì doanh nghiệp chỉ cần nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài, lắp ráp trong nước rồi dán nhãn “sản xuất trong nước”.
Cách làm này tuy mang lại lợi nhuận nhanh, nhưng về lâu dài sẽ triệt tiêu toàn bộ năng lực sản xuất trong nước, làm mất đi nền tảng của công nghiệp quốc gia. Vì vậy, điểm kiến nghị quan trọng nhất cần được nhấn mạnh trong mục 4 của Nghị quyết là phải có cơ chế bảo hộ hợp lý, đồng thời đặt hàng chiến lược cho các ngành sản xuất nội địa. Con đường thứ hai, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc thay thế từng bước, mà phải hướng tới làm chủ các chuỗi giá trị mới. Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang mở ra một cơ hội rất lớn, khi các quốc gia gần như xuất phát từ cùng một điểm. Nếu Việt Nam đi trước trong việc phát triển các sản phẩm công nghệ mới, chúng ta sẽ nắm quyền chủ động và làm chủ toàn bộ chuỗi giá trị."
Từ việc coi văn hóa là nền tảng tinh thần và nguồn lực nội sinh, dự thảo văn kiện đã xác định văn hóa là sức mạnh mềm chiến lược, yếu tố then chốt để nâng cao vị thế và uy tín quốc gia. Cần có cơ chế hỗ trợ đặc thù để phát huy vai trò này trong chương trình hành động.”
Đại biểu Bùi Hoài Sơn, Đoàn ĐBQH TP Hà Nội, góp ý: “Tôi đề nghị cần cụ thể hóa hơn các chính sách liên quan đến thị trường, sản phẩm và dịch vụ văn hóa số, đặc biệt là trong các lĩnh vực như di sản, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản và bảo tàng. Việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa không chỉ giúp bảo tồn và phát huy giá trị di sản, mà còn tạo điều kiện để xây dựng hệ sinh thái văn hóa số quốc gia, nơi các sản phẩm văn hóa được số hóa, lưu trữ, lan tỏa và thương mại hóa một cách bền vững. Mục tiêu là để Việt Nam sớm hình thành hệ sinh thái văn hóa số quốc gia, qua đó đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới bằng chính công nghệ Việt Nam."
Dự thảo xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là trung tâm gia tăng năng lực sản xuất. Vì vậy, cần bổ sung vào điều 7 của nghị quyết chiến lược phát triển khoa học công nghệ có sản phẩm dẫn dắt, đồng thời coi các sản phẩm nghiên cứu trong nước là tài sản quốc gia, không được chuyển giao ra quốc tế.
Các ý kiến đều thống nhất rằng, muốn tăng nội lực để tự chủ nền kinh tế, phải đồng thời hoàn thiện thể chế, phát triển khoa học – công nghệ, đầu tư cho giáo dục – đào tạo, và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa Việt Nam như nguồn lực phát triển bền vững.














